Hiệu quả trong công tác ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất
Thứ hai - 08/05/2023 16:524180
Trong những năm qua, các đơn vị trong Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) đã tập trung đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất được phát triển theo hướng cơ giới hóa, tự động hóa, tin học hóa, sản xuất sạch hơn ở hầu hết các lĩnh vực đưa năng suất lao động tăng, cải thiện điều kiện làm việc nặng nhọc, tăng mức độ an toàn cho công nhân và góp phần đáng kể vào việc cải thiện và phục hồi môi trường sinh thái vùng mỏ.
Có thể thấy rằng, trong những năm qua, hàng loạt ứng dụng công nghệ mới và tiến bộ kỹ thuật đã được Vinacomin nghiên cứu và ứng dụng vào sản xuất, góp phần không nhỏ cho sự phát triển chung của toàn ngành.
Cụ thể, trong công nghệ thông tin, tất cả các đơn vị đều được nối mạng liên kết nội bộ và quốc tế để trao đổi thông tin, dữ liệu. Các sản phẩm chuyên nghiệp (CAD, CAM, Sufer, Mapinfo…) được sử dụng rộng rãi, các phần mềm tích hợp đa chức năng được triển khai, phục vụ mô hình hóa và lưu giữ, tính toán, xử lý dữ liệu thuận tiện, nhanh chóng, chính xác.
Đối với công tác địa chất, các đơn vị đã sử dụng công nghệ khoan sâu (từ 1.000 đến 2.000m) và khoan nghiêng định hướng tìm kiếm thăm dò và đo địa vật lý xác định cấu trúc địa chất; đánh giá trữ lượng bằng các phương pháp đa dạng như địa thống kê, mô hình hóa, chỉ tiêu đa dạng với các phần mềm tin học hiện đại..
Đặc biệt trong công tác khai thác hầm lò, các đơn vị như Hà Lầm, Núi Béo, Khe Chàm... đã thiết kế, xây dựng các hầm lò với mức độ cơ giới hóa cao, thiết bị hiện đại, công suất lớn; tăng cường phát triển cơ giới hóa khai thác than trong lò chợ, sử dụng các loại chống thủy lực thay thế gỗ, áp dụng công nghệ khấu than bằng máy góp phần tăng sản lượng than, giảm tổn thất than đáp ứng được nhu cầu về than ngày càng cao của thị trường trong nước và xuất khẩu.
Đối với các vỉa than dốc, nếu như trước đây các đơn vị áp dụng các sơ đồ công nghệ như: Sơ đồ công nghệ khai thác phá nổ phân tầng, sơ đồ công nghệ khai thác cột dài theo phương, lò chợ chia bậc chân khay, phá hỏa toàn phần (Công ty Than Hồng Thái) hoặc chèn lò theo kiểu Kakuchi của Nhật Bản (Công ty Than Mạo Khê)... Trong các sơ đồ công nghệ trên, công tác khấu gương được thực hiện bằng phương pháp khoan nổ mìn, chống giữ bằng vì chống thủy lực.
Từ năm 2008, với đề tài cấp Bộ “Đánh giá hiệu quả và đề xuất hướng phát triển áp dụng công nghệ cơ giới hóa vỉa dốc bằng dàn chống tự hành 2ASHA tại các hầm lò Quảng Ninh” do Viện Khoa học công nghệ Mỏ tiến hành đã đưa vào áp dụng tại Mạo Khê, tổng mức đầu tư gần 25 tỷ đồng, thời gian thử nghiệm từ tháng 6-2008 đến tháng 9-2010 với số lượng khai thác được 148,2 ngàn tấn, công suất lò chợ 63,5 ngàn tấn/năm, tổn thất than công nghệ 16%.
Tiếp đó, công nghệ này được triển khai tại Công ty than Hồng Thái với tổng mức đầu tư trên 53 tỷ đồng, thời gian thử nghiệm từ tháng 11-2008 đến 12-2010, sản lượng khai thác được là trên 52 tấn; năng suất lao động bình quân đạt 2,6 tấn/công.
Trong công tác sàng tuyển, chế biến, vận tải: Các nhà máy tuyển than hầu hết có công suất gần 20 triệu tấn/năm, được cải tạo và đầu tư công nghệ mới nhằm sản xuất các loại than cám chất lượng tốt dùng để xuất khẩu và sử dụng trong nước, giảm bùn lắng, xử lý nước thải, phát triển hàng loạt các cụm dây chuyền tuyển bằng công nghệ huyền phù tự sinh và huyền phù manhêtít để tuyển các loại bã sàng và than nguyên khai chất lượng thấp ở các mỏ hầm lò và lò lộ thiên.
Thông qua dự án sản xuất thử nghiệm “Hoàn thiện công nghệ sản xuất và đốt nhiên liệu huyền phù than nước Antraxít Quảng Ninh” do Viện khoa học công nghệ mỏ chủ trì, tại Quảng Ninh đã thiết kế chế tạo và lắp đặt thành công lò đốt nhiên liệu huyền phù than nước với công suất 2 tấn/h, nhờ có dự án này đã giảm giá thành và giảm ô nhiễm môi trường so với đốt dầu mazút.
Nhằm nâng cao hiệu quả điều hành sản xuất, sử dụng thiết bị cơ giới, nâng cao hiệu quả công tác cứu nạn, thủ tiêu sự cố trong các tình huống khẩn cấp, một số đơn vị thành viên thuộc Vinacomin đã lắp đặt các hệ thống định vị toàn cầu GPS cho các phương tiện vận tải như ôtô, tàu thuyền chở than để theo dõi hành trình và quản lý cung đường tự động; cải tạo, nâng cấp cảng, thiết bị rót than (máy rót Hitachi, cầu trục Portich, cầu cảng độ sâu hơn 10m, tàu lớn có trọng tải 7 vạn tấn vào được cảng Cẩm Phả), cùng hệ thống đường sắt, bến bãi, đầu tàu, toa xe để vận chuyển than các khu vực Cẩm Phả, Hòn Gai, Uông Bí làm giảm ô nhiễm môi trường và tăng hiệu quả.
Theo kế hoạch phát triển của Vinacomin, sản lượng khai thác than sẽ tăng nhanh, trung bình 6,4%năm (giai đoạn 2011 - 2015), và 4,6%/năm (giai đoạn 2016 - 2025), đạt tổng sản lượng khai thác 60,3 triệu tấn than vào năm 2015.
Để đảm bảo sản lượng theo kế hoạch, trong những năm tới, Vinacomin tiếp tục sẽ có những bước đột phá mới trong việc nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ, hoàn thiện mô hình quản lý, nhất là sự tác động sâu hơn nữa của các đơn vị tư vấn nghiên cứu phát triển sản xuất của doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu đó, Vinacomin cần tăng cường tiềm lực cơ sở vật chất và nguồn nhân lực tri thức cao, thông qua chuyển giao công nghệ hoặc liên doanh các đơn vị sản xuất, đầu tư các phòng thí nghiệm, liên kết các tổ chức nước ngoài để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Đồng thời, tạo hành lang pháp lý và cơ chế về tài chính cho các cơ sở nghiên cứu, tư vấn được hưởng hiệu quả làm lợi từ các công trình, đề tài nghiên cứu để tái đầu tư cho khoa học công nghệ./.