Trong những năm qua, mức tăng trưởng GDP của cả nước luôn ở mức cao so với khu vực. Trong đó không thể không kế đến những thành tựu có ý nghĩa to lớn của ngành công nghiệp mỏ đóng góp tích cực cho nền kinh tế nước nhà. Đó là những kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất trong toàn ngành mỏ như: công nghiệp khai thác dầu – khí, khai thác than và khoáng sản kim loại.
Hội nghị KHKT mỏ lần thứ XXVII năm nay với chủ đề: “Khoa học và Công nghệ mỏ - Những thành tựu và Phương hướng phát triển”, nhằm khẳng định vai trò khoa học và công nghệ đã được ứng dụng một cách rộng rãi và có hiệu quả cao trong ngành công nghiệp mỏ.
Tuyển tập báo cáo Hội nghị đã lựa chọn 50 báo cáo trong tổng số hơn 100 báo cáo của các nhà khoa học, các nhà quản lý gửi về từ các Viện nghiên cứu, các Trường đại học, các Tập đoàn, Tổng công ty, Công ty... Các báo cáo được sắp xếp theo 4 phần: Phần 1. Những vấn đề chung; Phần 2. Công nghệ mỏ; Phần 3. Công nghệ chế biến khoáng sản, cơ điện - cơ khí, Phần 4. An toàn, môi trường và địa tin học.
Trước khi các tác giả báo trình bày báo khoa học, Hội nghị đã nghe bài trình bày có tính đề dẫn của ông Lê Minh Chuẩn – Chủ tịch HĐTV Tập đoàn CN Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) với tiêu đề” Định hướng phát triển sản xuất kinh doanh than, khoáng sản của TKV đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Báo cáo đề cập đến các vấn đề như: a) Thực trạng SXKD than, khoáng sản của TKV; b) những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của Tập đoàn trong những năm qua, tuy nhiên, với t inh thần “ Kỷ luật và Đồng tâm” của các cấp lãnh đạo và người lao động trong TKV là thế mạnh đã được kiểm chứng sẽ tiếp tục thúc đẩy Tập đoàn vượt qua khó khăn, thách thức để tận dụng cơ hội phát triển bền vững trong thời kỳ mới. c) Quan điểm phát triển của TKV với các Mục tiêu chung là: Phấn đấu, xây dựng và phát triển Tập đoàn các công ty Than - Khoáng sản Việt Nam với mục tiêu chung: “An toàn - Phát triển - Hiệu quả” theo phương châm bền vững: “Từ tài nguyên kháng sản và nguồn nhân lực đi lên giàu mạnh; thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; hài hoà với địa phương và cộng đồng; hài hoà với đối tác và bạn hàng; hài hoà giữa các công ty thành viên và người lao động” .
Thay mặt nhóm tác giả, TS. Nguyễn Tiến Chỉnh trình bày về ” Thành tựu hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn TKV – Cơ hội, thách thức và định hướng phát triển”. Báo cáo trình bày tổng hợp sản xuất kinh doanh của TKV trong các năm từ 2013 đến năm 2019. Một trong những nguyên nhân tác động tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của TKV đó là giá than và giá khoáng sản. Giá thành tiêu thụ than trong những năm gần đây tăng cao có lúc cao ngang bằng với giá bán than trong nước. Tuy nhiên, những năm gần đây giá than bình quân đều cao hơn giá thành nên sản xuất kinh doanh có lãi.
Trong giai đoạn 2013÷2019 các đơn vị TKV đã đẩy mạnh áp dụng cơ giới hoá (CGH) trong khai thác hầm lò cả về số lượng và đa dạng về loại hình công nghệ . Đặc biệt các dây chuyền lò chợ CGH đồng bộ, hạ trần thu hồi than nóc tại Công ty than Hà Lầm có công suất lò chợ cao ( 1,2 triệu tấn/năm) , góp phần nâng cao sản lượng than khai thác bằng CGH trong Tập đoàn.
Đặc biệt trong khai thác quặng bauxit và chế biến alumin TKV đã đưa vào vận hành thành công 2 dự án thử nghiệm: dự án Tân Rai từ 1/10/2013 và dự án Nhân Cơ từ 1/7/2017. Tính từ 2013 đến 2019 TKV đã khai thác và chế biến được 13,682 triệu tấn tinh quặng bauxit và sản xuất được 5,334 triệu tấn alumin quy đổi. Doanh thu từ sản xuất alumin lũy kế 2013÷2019 đạt 42.500 tỉ đồng; sản xuất kinh doanh alumin có lãi từ năm 2017, đến năm 2019 đã bù hết lỗ của những năm trước và lãi lũy kế sau thuế là 214 tỉ đồng; nộp ngân sách lũy kế 2013÷2019 gần 5.700 tỉ đồng. Các cơ hội và thách thức trong hoạt động sản xuất kinh doanh của TKV cũng được tác giả trình bày với những phân tích cụ thể.
“Khai thác, phát triển bể than đồng bằng sông Hồng – Tiềm năng và thách thức” được PGS. TS. Phùng Mạnh Đắc trình bày với các nội dung như: điều kiện địa chất công trình, địa chất thủy văn, đất đá vây quanh, trữ lượng của toàn bể than có cấu trúc vô cùng phức tạp.Ttừ đó tác giả nhận định , việc áp dụng công nghệ khai thác lộ thiên thực sự không phù hợp. UCG và UCBG mặc dù đã nghiên cứu, thử nghiệm từ rất lâu, song vẫn chưa hoàn thiện, còn tồn tại nhiều vấn đề như: khó khăn trong việc điểu khiển quá trình, phản ứng sinh – hóa trong lò đất, kiểm soát sụt lún bề mặt, ô nhiễm môi trường nước, khí cháy nổ, vi khuẩn có hại, v.v. Ngoài ra, đặc điểm điều kiện địa chất của bể than, nhất là độ sâu phân bố của vỉa than lớn, điều kiện địa chất thủy văn phức tạp cũng rất khó đáp ứng các yêu cầu đối với các công nghệ này. Từ kết quả phân tích kinh nghiệm khai thác hầm lò các khoáng sàng có điều kiện phức tạp trên thế giới cho thấy việc áp dụng phương pháp hầm lò cho bể than ĐBSH cũng rất khó khăn do có điều kiện địa chất kỹ thuật phức tạo hơn. Như vậy, từ cơ sở thực tiễn và khoa học được tổng hợp, phân tích có thể nhận định, việc khai thác bể than ĐBSH thực sự là thách thức rất lớn. nên khi xem xét khai thác bể than đồng bằng sông Hồng cần phải tiến hành từng bước, thận trọng, lựa chọn cách tiếp cận phù hợp trong đó, việc nghiên cứu để đưa ra cơ sở khoa học về khả năng khai thác cần được ưu tiên thực hiện. Với tầm quan trọng mang tính chất quốc gia, khi được đầu tư và có định hướng phù hợp, việc khai thác bể than Đồng bằng sông Hồng có thể trở thành hiện thực trong thế kỷ 21, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước.
Một báo cáo rất được các đại biểu quan tâm đó là “ Những thành tựu trong nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các sản phẩm cơ khí trọng điểm và các sản phẩm quốc gia-Giàn khoan Dầu khí di động của ngành Cơ khí Dầu khí Việt Nam ” của PGS. TS. Nguyễn Trọng Nhưng. Với nhu cầu lớn về sử dụng giàn khoan, trong khi năng lực trong nước về vấn đề thiết kế, thi công, chế tạo, bảo trì, sửa chữa, nâng cấp các giàn khoan tự nâng còn hạn chế, thì nghiên cứu thiết kế, thi công, chế tạo giàn khoan tự nâng phù hợp điều kiện Việt Nam là việc làm hết sức cần thiết. Tác giả đã trình bày nội dung, kết quả thực hiện và ý nghĩa khoa học, thực tiễn, cũng như về mặt kinh tế-xã hội của 2 dự án quan trọng của PVN trong lĩnh vực này đó là Nghiên cứu thiết kế và công nghệ chế tạo giàn khoan tự nâng ở độ sâu 90m nước phù hợp với điều kiện Việt Nam và Nghiên cứu thiết kế cơ sở, chi tiết, công nghệ chế tạo, tích hợp giàn khoan tự nâng 400ft phù hợp với điều kiện Việt Nam và nghiên cứu phát triển, hoán cải giàn khoan dầu khí di động phục vụ phát triển kinh tế biển, an ninh quốc phòng . Kết quả của 2 dự án này cho thấy, năng lực thiết kế, thi công, chế tạo, bảo trì, sửa chữa, nâng cấp các giàn khoan tự nâng, nhà giàn của PVN cùng với tỷ lệ nội địa hóa của các công trình này tăng lên đáng kể, đặt nền móng cho một ngành công nghiệp chế tạo giàn khoan, các công trình biển ở Việt Nam. thành công xuất sắc của dự án đã nâng cao vị thế của Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành một trong số ít các nước trên thế giới có đủ khả năng thiết kế chi tiết và lắp dựng giàn khoan tự nâng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Thành công này là đóng góp quan trọng trong phát triển khoa học và công nghệ cho lĩnh vực đóng mới giàn khoan tự nâng, một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ tại Việt Nam. Thành công này cũng đặt tiền đề, nền móng và khai tạo ra ngành công nghiệp hỗ trợ và ngành công nghiệp đóng mới giàn khoan tại Việt Nam. Với giá trị rất cao của một giàn khoan dầu khí tự nâng (200-250 triệu USD), sản phẩm của dự án đã mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao cho ngành dầu khí và cho đất nước, giúp thay thế hàng nhập khẩu.
Hội nghị được vinh dự đón ông Phan Xuân Dũng- UVTW Đảng, Chủ tịch UBKHCN & MT QUốc hội. Ông Đặng Hoàng An - Thứ trưởng Bộ Công Thương, ông Trần Thanh Hải – Hiệu trưởng Đại học Mỏ - Địa chất. Phát biểu tại Hội nghị, ông Phan Xuân Dũng đã đánh giá cao vai trò của Hội KHCN Mỏ Việt Nam là một tổ chức nghề nghiệp đặc biệt với số lượng đông đảo Hội viên trên những địa bàn rộng lớn trải dài khắp đất nước như ngành Than ở Quảng Ninh; ngành bô xit ở Tây Nguyên đang đánh thức vùng rừng núi yên tĩnh, mang lại một cuộc sống mới cho đồng bào dân tộc; ngành Dầu khí ngoài Biển Đông vừa đóng góp như cứu cánh kinh tế rất lớn cho đất nước vừa là tiền đồn đánh dấu và xác định chủ quyền lãnh hải. Đ ánh giá cao thành tựu ngành Mỏ đã đạt được, tin tưởng vào tinh thần vượt khó, sáng tạo của CBCN ngành Mỏ, tăng tốc phát huy hơn nữa để phát triển KHCN Mỏ, hiện đại hóa, tin học hóa, tự động hóa, hội nhập quốc tế, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, đóng góp tích cực và làm cơ sở cho phát triển đất nước.
Các vị đại biểu chúc mừng Hội nghị và đánh giá cao vai trò của Hội trong công tác tư vấn- phản biện, giám định xã hội trong thời gian qua với một số Dự án trọng điểm của các Tập đoàn và nhà nước, mong muốn sẽ tiếp tục phát huy thế mạnh là đội ngũ KHKT có nhiều kinh nghiệm, chuyên môn cao để cùng các Tập đoàn, doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào thực tế sản xuất. nhằm cải thiện điều kiện làm việc, đảm bảo an toàn, bảo vệ môi trường, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tổn thất tài nguyên…
Tham dự Hội nghị có các ông Ông Nguyễn Viết Hòe, ông Nguyễn Văn Long và ông Đoàn Văn Kiển nguyên là Chủ tịch, những người trong nhiều năm liên tục đã lãnh đạo Hội KH&CN Mỏ VN; các đại biểu là PTGĐ và trưởng các Ban của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Tổng Công ty Đông Bắc, Tổng Công ty Thép VN cùng với trên 22 0 đại biểu bao gồm các Uỷ viên trung ương hội, các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sỹ , các nhà doanh nghiệp, các nhà khoa học, cán bộ, hội viên đại biểu của 105 chi hội, phân hội thuộc các ngành Dầu khí, ngành Than – Khoáng sản … trên khắp mọi miền của đất nước .
Sau Hội nghị, các đại biểu đi thăm Chi nhánh luyện đồng Lào Cai. Tại đây các đại biểu đã được Giám đốc Hoàng Ngọc Minh giới thiệu về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy, thăm các dây chuyền công nghệ và các phòng thí nghiệm. Trong giai đoạn 2015-2020, Chinh nhánh đã thực hiện nhiều giải pháp tối ưu vận hành dây chuyền luyện đồng gia tăng sản lượng, thực thu kim loại. Cụ thể, sản phẩm Cu tăng thêm từ 5-25%, Au tăng thêm 50%, Ag tăng thêm 100%, axit sunfuaric tăng trên 10%. Chi nhánh đã áp dụng nhiều tiến bộ trong KH&CN để tận thu, thu hồi nhiều kim loại đi kèm như thạch cao, nâng cao chất lượng đồng cathode đạt 99,99%; xây dựng dây chuyền sản xuất đồng sulfate sạch; nghiên cứu thu hồi kim loại quý Rheny./.
CTV (ST)
Nguồn tin: vinacomin.vn
Ý kiến bạn đọc