Những năm đầu thế kỷ 19, triều vua Minh Mạng, than đá ở khu vực Đông Triều đã bắt đầu được khai thác. Tuy nhiên, với hình thức thủ công, thô sơ, số lượng than mà những người phu mỏ khai thác và vận chuyển về kinh đô để giao nộp cho triều đình chẳng đáng bao nhiêu so với trữ lượng khổng lồ của vùng than trải dài từ Đông Triều đến Cẩm Phả. Phải đến khi thực dân Pháp chiếm đóng và thiết lập bộ máy cai trị, quá trình khai thác than mới chính thức được tiến hành một cách quy mô. Ngày 28/4/1888, công ty khai thác than đá lớn nhất nước Pháp được thành lập mang tên Công ty Pháp mỏ than Bắc Kỳ (Société Francaise des charbonnages du Tonkin - viết tắt là S.F.C.T). S.F.C.T được quyền quản lý, khai thác vùng “đất nhượng” rộng lớn kéo dài từ Mông Dương qua Cẩm Phả, Hồng Gai đến Vàng Danh, Mạo Khê. Năm 1888, người Pháp bắt đầu lập mỏ khai thác than và Kế Bào là mỏ than đầu tiên được S.F.C.T thành lập ngày 1/9/1888.
Đến ngày 9/12/1911, Pháp thành lập Công ty Than Kế Bào với số vốn ban đầu là 30 triệu phơ-răng. Ở thời kỳ thịnh vượng nhất, số lượng công nhân của mỏ Kế Bào lên tới gần 6.000 người, sản lượng khai thác hơn 30.000 tấn.
Toàn bộ khu vực mỏ Kế Bào chính là bán đảo Cái Bầu, huyện Vân Đồn ngày nay. Còn nhà máy sàng tuyển than Kế Bào được đặt tại xã Vạn Yên, nằm ở phía Đông đảo Cái Bầu, vị trí thuận lợi để vận chuyển than ra cảng Vạn Hoa và từ đó theo đường biển lưu chuyển về Pháp. Theo các viện chứng lịch sử, Kế Bào chính là mỏ than đầu tiên của Việt Nam, là tiền đề cho nền công nghiệp khai thác vàng đen suốt gần 1 thế kỷ sau đó, đồng thời cũng là khởi nguồn của giai cấp công nhân vùng mỏ Quảng Ninh.
Khoảng thời gian 1929-1933, trước sự ảnh hưởng nặng nề của cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới, việc khai thác than cũng bị đình trệ. Đến năm 1935, chỉ còn 600 công nhân người Á Đông và 2 người châu Âu làm việc tại mỏ Kế Bào. Khi khu mỏ được giải phóng vào năm 1955, thực dân Pháp đã dỡ bỏ toàn bộ hạ tầng, hệ thống máy móc khai thác tại nhà máy Kế Bào chuyển về Pháp.
Trải qua hơn 1 thế kỷ với nhiều biến động của lịch sử, mỏ than Kế Bào nay chỉ còn lại một số dấu tích. Trên con đường vận chuyển than từ công ty than Kế Bào ra cảng Vạn Hoa còn 3 cây cầu sắt nối với 2 đường hầm xuyên núi. Từng mố cầu, những chiếc đinh ốc, lan can sắt đã rỉ sét theo thời gian, nhưng tất cả cấu kiện đều vẫn vẹn nguyên như những năm tháng xa xưa. 2 đường hầm xuyên qua núi nằm trên con đường dân sinh của xã Vạn Yên, đến nay kết cấu vẫn còn rất tốt. Mỗi đường hầm dài khoảng 100m, cao 4,5m và rộng khoảng 4,5m. Trải qua hơn 100 năm, rêu phong đã phủ lên những đường men, nước nhỏ xuống tạo thành những thạch nhũ thấp thoáng trên mái vòm… Dấu tích của 1 thời kỳ lịch sử giờ chỉ còn lãng đãng như những cơn gió mỗi ngày vi vu thổi qua hầm.
Qua những cây cầu sắt và những hầm ngầm, ở cuối con đường là cảng Vạn Hoa, giờ đây được quản lý bởi 1 đơn vị hải quân. Dấu tích cuối cùng ở đó chỉ còn chiếc máng rót than cũ, nơi những con tàu từng cập vào ăn than rồi nhanh chóng rời đi. Ký ức về những năm tháng cũ dường như chỉ còn hằn trong tâm trí của những thế hệ đi trước và rớt rơi ở những phế tích nằm im lìm bên những núi non điệp trùng của vùng đất phía Đông bán đảo Cái Bầu.
Trong quá khứ, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam từng có kế hoạch phối hợp với Hội Văn nghệ dân gian Quảng Ninh triển khai việc khoanh vùng, cắm mốc và bảo tồn khu vực di tích mỏ Kế Bào. Song trên thực tế, đến tận bây giờ, những di tích ấy đang dần trở thành phế tích và dường như đang dần bị quên lãng trong tiến trình phát triển của 1 vùng đô thị rực rỡ tiềm năng.
Theo chia sẻ của ông Nguyễn Hồng Minh - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Vạn Yên, chính quyền xã thật sự mong muốn có những chính sách rõ ràng hơn về việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích mỏ than Kế Bào. Qua đây, vừa để giáo dục truyền thống lịch sử cho các thế hệ con cháu về truyền thống hào hùng của cha ông, đồng thời cũng là tiềm năng có thể đưa vào khai thác, góp phần phát triển du lịch địa phương./.
NQ (ST)
Ý kiến bạn đọc