Câu chuyện về Binh đoàn Than huyền thoại

Thứ tư - 25/10/2023 10:30 860 0
Trong các cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lớp lớp cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam đã anh dũng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân. Nhờ tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" ấy mà nền độc lập tự do của dân tộc được bảo vệ; từng tấc đất, vùng biển, khoảng trời của Tổ quốc ta được giữ gìn toàn vẹn chủ quyền. Trong những trang sử vẻ vang ấy, câu chuyện về Binh đoàn Than luôn sống động trong ký ức người Vùng mỏ. Năm 1967 những người thợ mỏ đã hăng hái tình nguyện lên đường nhập ngũ, lập nhiều chiến công hiển hách.
Câu chuyện về Binh đoàn Than huyền thoại
6


      Từ năm 1964, vùng than Quảng Ninh có rất nhiều sự kiện cách mạng điển hình, cổ vũ khí thế lao động, chiến đấu dâng lên những đợt sóng lớn. “Đợt sóng” đầu tiên chính là ngày 5/8/1964, quân và dân Quảng Ninh đã bắn rơi 2 máy bay trên bầu trời TX Hòn Gai, chiến thắng không lực của đế quốc Mỹ ngay trận đầu tiên chúng mở đợt tấn công phá hoại miền Bắc. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có mặt tại Hồng Gai ngày 5/8/1964. Sách "Lịch sử Đảng bộ TP Hạ Long giai đoạn 1930-2010", do NXB Chính trị Quốc gia ấn hành, trích lời cố Thủ tướng: "Tôi rất vui mừng được thấy trận đầu đánh thắng đế quốc Mỹ của các đồng chí. Tôi chuyển lời khen ngợi của Trung ương Đảng, của Bác Hồ đến với toàn thể cán bộ, chiến sĩ phòng không, hải quân, công an, dân quân tự vệ và toàn thể nhân dân Hồng Gai Anh hùng". Sau chiến thắng vẻ vang ấy, khi về chúc Tết Ất Tỵ (1965) ở Vùng mỏ, Bác Hồ cũng đã dành lời khen ngợi cho quân và dân Quảng Ninh.

Binh đoàn Than làm lễ xuất quân năm 1967. Ảnh tư liệu
Binh đoàn Than làm lễ xuất quân năm 1967. Ảnh tư liệu

      Những năm tiếp theo đó, hàng loạt các phong trào cách mạng được đẩy mạnh ở Quảng Ninh, như: “Thợ mỏ phất cao cờ hồng”, “Vì miền Nam ruột thịt”, “Trai cơ khí anh hùng quyết lập công mùa thao diễn, Gái thợ mỏ đảm đang sẵn sàng vượt mức thi đua"... Khi Đài Tiếng nói Việt Nam truyền đi "Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước" quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Hồ Chủ tịch vào lúc 6 giờ ngày 17/7/1966, toàn thể quân và dân Quảng Ninh đều thấm nhuần lời dặn dò ấy của Người. Rằng kẻ thù dù có hung bạo đến đâu, dù có lắm súng nhiều tiền đến đâu thì cũng không thể thắng được nhân dân Việt Nam; cái chính nghĩa phải thắng cái phi nghĩa; cái văn minh phải thắng bạo tàn. Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn...

      Tháng 7/1967, để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Trung ương đã cho phép tỉnh Quảng Ninh và ngành Than lần đầu tiên tổ chức một đợt tuyển quân quy mô lớn. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, những người thợ mỏ đã hăng hái làm đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ, dù họ thuộc diện được ưu tiên ở lại để làm nhiệm vụ sản xuất tại khai trường, hầm lò, sản xuất than cho Tổ quốc. Nhưng trước yêu cầu lịch sử, lắng nghe tiếng gọi của miền Nam ruột thịt, những người thợ mỏ đã có chung một quyết định sắt đá: Ngưng tay búa, tay máy để lên đường vào Nam chiến đấu. Nhiều người trong số họ còn trích máu, viết huyết tâm thư xin được cùng đồng đội cầm súng ra tiền tuyến.

6
Binh đoàn Than làm lễ xuất quân năm 1967. Ảnh tư liệu

      Cuộc tuyển quân diễn ra hết sức khẩn trương. Chỉ trong vòng 4 ngày từ 27-30/7/1967, tỉnh Quảng Ninh và ngành Than đã huy động được khoảng 2.000 người, chủ yếu là cán bộ, công nhân ngành Than, Điện, số ít còn lại là cán bộ, công nhân một số cơ quan đơn vị và con em nhân dân Quảng Ninh. Quân số này được tập hợp thành 3 tiểu đoàn: Tiểu đoàn 385, Tiểu đoàn 386 và Tiểu đoàn 9. Trong đó, tất cả thành viên của Tiểu đoàn 385 và Tiểu đoàn 386 là thợ mỏ ở khu vực Hòn Gai và Cẩm Phả. Tiểu đoàn 9 là tập hợp quân số của nhiều ngành nghề, với khoảng 900 người.

6
Quang cảnh lễ xuất quân của Binh đoàn Than tổ chức tại sân Cây Tháp (TX Hòn Gai) năm 1967.

      Cái tên Binh đoàn Than dù không phải phiên hiệu chính thức trong Quân đội, nhưng đã được đặt chung cho lực lượng này, khơi gợi khí thế hào hùng của những người lính. Danh hiệu Binh đoàn Than đã đi vào lịch sử của giai cấp công nhân mỏ và lịch sử cách mạng tỉnh Quảng Ninh; là một minh chứng hùng hồn về chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giữa thế kỷ XX. Còn với những người lính khi đó, danh hiệu Binh đoàn Than như một lời nhắc nhở về quê hương, nguồn cội, trở thành động lực cho mỗi bước hành quân.

      Ngày 30/7/1967 Binh đoàn Than làm lễ xuất quân lên đường chi viện cho chiến trường miền Nam. Đây là đợt xung phong tòng quân lớn nhất của Quảng Ninh tính đến bây giờ. Trong ký ức của nhiều người có mặt tại TX Hòn Gai chiều hôm ấy vẫn còn nhớ về hình ảnh những tân binh còn mặc áo thợ đứng chật sân rạp Bạch Đằng tại phố Cây Tháp (nay là phố Lê Thánh Tông, phường Bạch Đằng, TP Hạ Long), kéo dài đến tận phà Bãi Cháy. Sự kiện rất được quan tâm, nên không chỉ gia đình của các chiến sĩ đến tiễn người thân, mà còn có đông đảo nhân dân cùng có mặt để gửi lời động viên, cổ vũ. Có những nỗi niềm khác nhau đã được nhắn gửi giữa người ra đi, người ở lại, nhưng lớn hơn cả chính là tinh thần cách mạng dâng trào trong mỗi người con Vùng mỏ. Họ quyết tâm chưa hết giặc chưa trở về quê hương. Câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành chân lý, thôi thúc Binh đoàn Than hăm hở lên đường.

s


      Tiểu đoàn 9 tham gia huấn luyện tại TX Đông Triều, sau đó hành quân thẳng vào Kon Tum. Tiểu đoàn 385 và Tiểu đoàn 386 huấn luyện tại Hòa Bình, đến tháng 12/1967 thì hành quân vượt dãy Trường Sơn, hướng thẳng tới mặt trận Khe Sanh, Quảng Trị. Thông tin về việc thành lập Binh đoàn Than nhanh chóng được phía địch nắm bắt. Nửa tháng sau khi xuất quân, thông tin trinh sát của ta cho biết: Đài BBC loan tin rằng có một binh đoàn đặc nhiệm của Quân đội Việt Nam đang hành quân vào Nam. Thế là giặc Mỹ ra sức tìm diệt binh đoàn ấy dọc suốt đường hành quân, hòng chặn đứng một lực lượng tinh nhuệ, kỷ luật cao, sức khỏe tốt đang trên đường hướng thẳng về tiền tuyến. Dù vậy cũng không thể cản bước của lực lượng này, bởi động lực của họ chính là phẩm chất kiên trung và tinh thần "Kỷ luật và Đồng tâm" của thợ mỏ luôn tỏa sáng trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

6
 
      Danh tiếng của Binh đoàn Than đã được thể hiện qua mỗi trận đánh. Trong đó phải để đến trận đầu tiên tại Quảng Trị năm 1968, tức là chỉ chưa đầy 1 năm sau khi Binh đoàn xuất quân từ Bến phà Bãi Cháy. Vào thời điểm đó, sân bay Tà Cơn là một trong những căn cứ điểm quân sự chiến lược của Mỹ tại chiến trường Khe Sanh với địa hình như một thung lũng lòng chảo được bao bọc xung quanh những đồi núi. Giặc Mỹ xây dựng một tập đoàn phòng ngự kiên cố nhất  ở vùng địa đầu miền Nam Việt Nam gồm các cứ điểm: Làng Vây - Chi khu quân sự Hướng Hóa - cụm cứ điểm phòng ngự sân bay Tà Cơn. Các máy bay trinh sát cất cánh từ sân bay Tà Cơn làm nhiệm vụ kiểm tra, chỉ điểm cho nhiều hoạt động đánh phá, ngăn chặn và cắt đứt các tuyến đường Hồ Chí Minh... Vì vậy, việc tiến công vào cứ điểm Làng Vây được Quân ủy Trung ương xác định là trận đánh then chốt mở đầu Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, nhằm đạt mục đích chiến lược là kéo và kìm giữ một phần lực lượng cơ động chiến lược quan trọng của địch.

      Mặc dù được xem như một pháo đài bất khả chiến bại với hệ thống công sự phòng ngự dày đặc, kết hợp với các cao điểm kế cận để hình thành nên một thế phòng ngự liên hoàn, cơ động..., sân bay Tà Cơn vẫn phải chịu thất thủ trước mưu trí của quân đội ta. Khe Sanh - Hướng Hóa là huyện đầu tiên của Quảng Trị và của miền Nam hoàn toàn được giải phóng. Trong đó, Binh đoàn Than đã góp sức cùng toàn quân tiêu diệt 20 vạn tên địch, phá hủy hàng nghìn máy bay, xe quân sự... Cả thế giới biết đến Khe Sanh như là “Trận Điện Biên Phủ thứ hai”. Thắng lợi vang dội đó của quân và dân ta đã giúp triệt tiêu một cứ điểm trọng yếu của địch, là điều kiện thuận lợi cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 giành thắng lợi. Đồng thời tiếp thêm niềm tin vững chắc để quân và dân ta tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

      Sau năm 1968, từ 3 tiểu đoàn ban đầu, những người lính Binh đoàn Than được chia ra, bổ sung vào các trung đội, tiểu đội khác nhau ở các đơn vị mới, tiếp tục chiến đấu. Lịch sử còn ghi lại nhiều trận đánh vang dội của những người con Đất mỏ trên các chiến trường. Có người ở lại tham gia giải phóng Tây Nguyên, chiến đấu các trận đánh Plây Cần, Ngọc Hồi, Sa Thầy, Kon Tum..., hoặc vượt đèo Phượng Hoàng, đánh sân bay Chư Cúc, giải phóng Nha Trang. Có người tham gia các chiến dịch Xuân Hè 1969, chiến dịch Thu Đông 1970 - 1971, Xuân 1971. Có mũi tiến công hướng về miền Tây Nam Bộ, đánh vào sào huyệt Quân cảng Kho xăng Nhà Bè; tiêu diệt các cứ điểm cầu Mương Chuối, Long An; rồi đánh địch trên sông Rạch Dừa...

      Niềm tự hào Binh đoàn Than gắn với những tin vui báo công liên tiếp chuyển về Vùng mỏ, trở thành niềm tự hào vô bờ bến của khắp các gia đình, nhà máy, xí nghiệp, đơn vị. Điển hình: Chiến sĩ Nguyễn Xuân Hùng (công nhân Tuyển than Hòn Gai) cùng đồng đội bắn cháy 2 xe tăng, 1 xe cơ giới; chiến sĩ Nguyễn Đức Bình (thợ mỏ Đèo Nai) cùng đồng đội đánh Kho xăng Nhà Bè, thiêu hủy hàng vạn lít xăng dầu; Tiểu đội trưởng Phạm Ngọc Niếp (thợ mỏ Thống Nhất) dũng cảm mưu trí, cùng đồng đội bắn chìm 1 tàu chiến của Mỹ - Ngụy... Rất nhiều đồng chí khác đã chiến đấu anh dũng, được phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, Dũng sĩ diệt xe cơ giới, Huân chương Giải phóng... Danh tiếng của những người lính Binh đoàn Than trở thành niềm tự hào của nhân dân Vùng mỏ, đồng thời cũng là nỗi khiếp sợ của kẻ thù.

      Đặc biệt, trong trận quyết đấu cuối cùng, nhiều chiến sĩ của Binh đoàn Than đã tham gia lực lượng tiến vào giải phóng Sài Gòn. Trưa ngày 30/4/1975 có 50 chiến sĩ thuộc Binh đoàn Than được bổ sung cho Trung đoàn 28, theo mũi tấn công thẳng đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu Ngụy, chứng kiến tận mắt thời điểm lịch sử khi cánh cổng Dinh Độc Lập bị xe tăng 390 húc đổ. Quân ta đã làm chủ sào huyệt cuối cùng của địch. Tổng thống Ngụy là Dương Văn Minh buộc phải lên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trước quân giải phóng. Lá cờ cách mạng với ngôi sao vàng rực rỡ đã tung bay trên nóc phủ Tổng thống Ngụy, kết thúc 20 năm trường kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta.

      Chiến công hiển hách, thắng lợi vẻ vang có được là nhờ tinh thần sẵn sàng hy sinh vì cách mạng, vì dân tộc của những người chiến sĩ. Binh đoàn Than năm xưa đã hướng thẳng về chiến trường miền Nam với quyết tâm sắt đá của toàn dân tộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chỗ nào khó khăn, gian khổ ác liệt nhất, họ sẵn sàng có mặt, đi mũi tiên phong, quyết giành thắng lợi. Thống kê sau năm 1975, có hơn 300 người lính Binh đoàn Than năm ấy không bao giờ trở lại; gần 400 người là thương binh hoặc bị phơi nhiễm chất độc da cam.

      Hoàn thành nhiệm vụ trong quân ngũ, đa số người lính Binh đoàn Than đã phục viên, chuyển ngành trở về quê hương. Những người đủ sức khỏe ngay lập tức trở lại với ngành Than như lời thề ngày xuất quân, cần mẫn lao động, cống hiến với tinh thần cách mạng, xung kích vẫn nguyên vẹn như khi còn tại ngũ. Nhiều người trong số đó được bổ nhiệm các chức vụ trong các đơn vị, xí nghiệp, tiếp tục cống hiến nhiều năm cho tới khi nghỉ chế độ. Dù ở cương vị công tác nào, hay khi đã nghỉ hưu, họ vẫn tiếp tục là đầu tàu gương mẫu trong nhiều phong trào thi đua từ cơ sở.

      Binh đoàn Than ra trận, lập nên nhiều chiến công hiển hách là sự kết hợp của chủ nghĩa yêu nước với tinh thần “Kỷ luật và Đồng tâm” của giai cấp công nhân Vùng mỏ. Câu chuyện về Binh đoàn Than huyền thoại mãi là niềm tự hào cho thế hệ trẻ tiếp bước cha ông, là động lực cho các phong trào thi đua xây dựng ngành Than và quê hương Vùng mỏ văn minh, giàu đẹp.
 
6


      Chiến tranh đã lùi xa, song những tháng năm rực lửa vẫn còn vẹn nguyên trong ký ức của các chiến sĩ Binh đoàn Than năm xưa. Họ đã xông pha nơi trận mạc, sẵn sàng hy sinh tuổi xuân để bảo vệ đất nước.

6


      Tháng 7/1967 tỉnh Quảng Ninh huy động lực lượng thanh niên của tỉnh từ Móng Cái đến Đông Triều ở mọi ngành, mọi nghề bổ sung cho chiến trường miền Nam ruột thịt với phong trào “Tất cả vì tiền tuyến”. Công nhân ngành Than tại TX Hòn Gai, TX Cẩm Phả viết đơn tình nguyện vào Nam chiến đấu. Sau thời gian huấn luyện tại Yên Tử rồi Hòa Bình, các chiến sĩ Binh đoàn Than gồm Tiểu đoàn 385, Tiểu đoàn 386, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 42, Sư đoàn 320, tổng quân số khoảng 2.000 người, hành quân vào chiến trường miền Nam.

      Lúc này, chiến sĩ Bùi Duy Thinh là công nhân Mỏ Than Hà Tu, vừa cưới vợ được 10 ngày, viết đơn tình nguyện nhập ngũ, được biên chế vào Đại đội 1, Tiểu đoàn 385. Sau gần 4 tháng hành quân, đơn vị của ông Thinh trực tiếp tham gia đánh địch tại mặt trận Tây Nguyên.

Ông Bùi Duy Thinh, Trưởng ban liên lạc Binh đoàn Than dở những kỷ vật mang dấu ấn chiến sỹ Binh đoàn Than.
Ông Bùi Duy Thinh - Trưởng BLL Binh đoàn Than xem lại những kỷ vật thời chiến sĩ Binh đoàn Than.

      Ông Bùi Duy Thinh kể: Ngày 5/2/1968, trước khi nổ súng trận Làng Vây (Kom Tum), tôi được kết nạp vào Đảng. Tôi luôn xác định tinh thần, mình là đảng viên, dù có hy sinh cũng không chùn bước. Trận đánh Làng Vây đơn vị tôi trực tiếp đánh trại huấn luyện biệt kích của Mỹ - Ngụy nằm trong tập đoàn cứ điểm Khe Sanh, cạnh đường 9. Xung quanh bao bọc bởi các cao điểm từ thấp lên cao, gồm cao điểm 452, cao điểm 845, cao điểm 833 do lính Mỹ đảm nhận với nhiều hỏa lực mạnh. Trận đánh Làng Vây có sự phối thuộc của xe tăng của ta, trận đánh kết thúc nhanh chóng, hầu hết quân địch bị tiêu diệt, một số rút chạy.

      Sau khi giải phóng Làng Vây, đơn vị của ông tiếp tục đánh các cao điểm, giải phóng sân bay Tà Cơn. Tại cao điểm 452, ông Thinh cùng đồng đội xông lên diệt các ổ đề kháng địch. Quân địch trong các lô cốt bắn ra xối xả. Thấy quân ta không thể xung phong lên được, ông Thinh lấy khẩu B41 của đồng đội hy sinh bên cạnh, lợi dụng địa hình địa vật, tiến sát, bắn vào chốt đề kháng của địch, diệt toàn bộ khoảng 6-7 tên Mỹ. Sau trận đánh này, ông Bùi Duy Thinh được phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ...

      Ở tuổi 79, ông Bùi Duy Thinh tay run run mở từng trang nhật ký là kỷ vật vô giá được ông bọc kỹ qua với nhiều lớp túi nilon. Những trận đánh, tên những đồng đội hy sinh được ông ghi chi tiết, đôi lúc ghép những vần thơ tiễn biệt đồng đội.

Ảnh ông Bùi Duy Thinh lúc trong quân ngũ bên dòng nhật ký được ông ghi lại trong chiến trường miền Nam.
Ảnh ông Bùi Duy Thinh lúc quân ngũ, bên cạnh là dòng nhật ký ông ghi lại tại chiến trường miền Nam.

      "...Trận đánh lúc 5h20 ngày 9/4/1971 tại khu vực Ngọc Ring, Bờ Riêng (Kon Tum) (ông Bùi Duy Thinh lúc này được điều động về Trung đoàn 28, Bộ Quốc phòng - tác giả), 25 chiến sĩ do thiếu tá Trần Văn Hà, Trung đoàn phó Trung đoàn 28, chỉ huy, truy kích địch đang rút chạy về Đắk Tô - Tân Cảnh. Sau khi trời sáng rõ, đơn vị ngừng truy kích, Trung đoàn phó Hà lệnh đơn vị nghỉ ngơi bên sườn đồi dưới tán cây le, ăn sáng bằng gạo rang lấy lại sức. Bất ngờ địch dùng máy bay B52 ném bom vào đúng đội hình, 25 chiến sĩ thì 21 người hy sinh trong đó có Trung đoàn phó Trần Văn Hà. Tôi và 3 người còn sống tiến hành chôn cất các đồng đội...".

      "Trận chiến khác tại Ngọc Ring, Bờ Riêng. Tôi bị bom hất xa 10m, bị đất vùi lấp, tưởng hy sinh, nhưng rất may vẫn sống và tiếp tục chiến đấu đến ngày đất nước thống nhất. Đơn vị tôi đã cắm lá cờ giải phóng trên nóc Bộ Tổng tham mưu Ngụy ngày 30/4/1975, đi hết chặng đường dài bao hy sinh mất mát để có ngày hôm nay...".

Di ảnh của Anh hùng LLVT nhân dân, liệt sĩ Nguyễn Xuân Việt. Ảnh tư liệu
Di ảnh Anh hùng LLVTNN, liệt sĩ Nguyễn Xuân Việt. Ảnh tư liệu

      Tháng 7/1967, anh Nguyễn Xuân Việt - công nhân Mỏ Than Hà Lầm tình nguyện gia nhập Binh đoàn Than chi viện cho chiến trường miền Nam. Trong suốt 4 tháng hành quân liên tục vào mặt trận, Nguyễn Xuân Việt cùng 190 chiến sĩ khác bổ sung cho Tiểu đoàn đặc công 406 Kon Tum. Trong thời gian chiến đấu đến lúc hy sinh, Nguyễn Xuân Việt tham gia chiến đấu gần 30 trận đánh. Ông trực tiếp chỉ huy các mũi chính diện, quan trọng luôn thể hiện ý chí tiến công với tinh thần “Nắm thắt lưng địch mà đánh”. Ông 3 lần bị thương nhưng đều xin ở lại đơn vị để điều trị rồi tiếp tục tham gia chiến đấu. Theo những đồng đội của ông kể lại, ông là tấm gương chiến đấu tới hơi thở cuối cùng, dù bị thương vẫn không rời trận địa.

      Tiêu biểu như trận đánh ngày 5/10/1968, quân ta tập kích tiền đồn 2 của Mỹ - Ngụy ở Bắc Kon Tum. Chiến sĩ Nguyễn Xuân Việt dùng thủ pháo và B40 tiêu diệt 10 mục tiêu quan trọng. Trong cuộc đời chiến đấu, ông 2 lần được đơn vị làm lễ truy điệu sống trước khi xung trận. Trận đánh vào Biệt khu 24 (Kon Tum) đêm 7/1/1969 tiêu diệt 1 tiểu đoàn Ngụy, 12 cố vấn Mỹ, phá hủy sở chỉ huy cùng nhiều phương tiện chiến tranh. Đặc biệt trận đánh vào sân bay Kon Tum ngày 16/3/1971, Đại đội trưởng Nguyễn Xuân Việt chỉ huy mũi chính diện, bị thương nặng, đồng đội đề nghị đưa ra khỏi trận địa, nhưng ông không đồng ý. Ông giao quyền chỉ huy cho cấp phó, còn ông một mình nổ súng thu hút hỏa lực địch đến để đơn vị phát triển tấn công. Ông bắn đến viên đạn cuối cùng và đã anh dũng hy sinh trong khi đơn vị giành chiến thắng.

Ông Bùi Duy Thinh là chiến sĩ của Binh đoàn Than có mặt tại Sài Gòn vào buổi trưa 30/4/1975. Ảnh tư liệu
Ông Bùi Duy Thinh là chiến sĩ của Binh đoàn Than có mặt tại Sài Gòn trưa 30/4/1975. Ảnh tư liệu

      25 năm sau ngày hy sinh, ngày 27/7/1997 ông Nguyễn Xuân Việt được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Đây là phần thưởng xứng đáng cho những cống hiến, tinh thần chiến đấu gan dạ dũng cảm, niềm tự hào của công nhân Vùng mỏ Anh hùng.

      Khi đang là thợ Nhà máy Cơ khí Hòn Gai, có thông báo tuyển quân, công nhân Chu Văn Đích làm đơn tình nguyện nhập ngũ, tháng 7/1967, biên chế vào Trung đội 4, Đại đội 3, Tiểu đoàn 385, Binh đoàn Than. Sau thời gian huấn luyện, vừa vào chiến trường, ông tham gia ngay trận đánh mở màn chiến dịch Mậu Thân 1968 tại Làng Vây, sân bay Tà Cơn (Quảng Trị); sau đó đơn vị ông được tăng cường lên Tây Nguyên hoạt động khu vực Đắk Tô (Kon Tum), rồi xuống vùng Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ, sang Campuchia...

      Ông Đích kể: Tôi không thể nhớ đã tham gia bao nhiêu trận đánh lớn, nhỏ. Có những trận đánh vừa hô xung phong thì đồng đội đã trúng đạn ngã xuống. Sáng mùng 1 Tết 1969 tôi sang thăm chúc Tết đồng đội Phạm Hùng Phong thì buổi chiều nhận được tin đồng đội đã hy sinh. Có những trận đánh hằn sâu trong ký ức khiến tôi không thể nào quên, như tránh đánh tại khu vực Đông Nam Bộ. Nơi đơn vị đang ém quân để đêm tiến công, bị địch phát hiện gọi B52 đến ném bom vào giữa đội hình. Cả đơn vị tan tác, thương vong nhiều vô kể...

Ông Bùi Duy Thinh ôn lại kỷ niệm với với Trung tướng Nguyễn Quốc Thước (giữa) nguyên là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3. Ảnh tư liệu
Ông Bùi Duy Thinh (ngoài cùng bên trái) ôn lại kỷ niệm với Trung tướng Nguyễn Quốc Thước (giữa) nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3. Ảnh tư liệu

      Phải đến 3 ngày sau đơn vị mới tập hợp lại được, mặc dù quân số giảm, nhưng trận đánh vẫn hoàn thành mục tiêu theo kế hoạch đã định. Trên đường rút quân ra, đơn vị tôi lại bị địch phục kích, bao vây. Địch dùng xe tăng và bộ binh vây kín, khiến đơn vị phải nằm án binh bất động 6 ngày. Lương thực cạn kiệt, mọi người san sẻ cho nhau từ miếng lương khô, ngụm nước, nhưng ý chí chiến đấu “Nắm thắt lưng địch mà đánh” của người lính Binh đoàn Than vẫn không lay động.

      Ông Đích còn trực tiếp tham gia nhiều trận đánh ác liệt cho đến khi bị thương hỏng bên mắt trái, phục viên ra Bắc năm 1974.

6


      “Sau này đánh thắng giặc Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, các đồng chí lại về với Quảng Ninh về với ngành Than”, ông Bùi Duy Thinh nhớ lại câu nói của Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Ngọc Đàm trong buổi lễ xuất quân tiễn Binh đoàn Than vào chiến trường ngày 15/12/1967. Sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ông Thinh lúc đó là trung úy, Trợ lý tham mưu, Trưởng Ban quân lực Trung đoàn 28, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3. 

Ông Lưu Văn Quý (phải) khi làm công nhân ở Mỏ than Hà Tu. Ảnh tư liệu
Ông Lưu Văn Quý (phải) khi làm công nhân ở Mỏ Than Hà Tu sau khi ở chiến trường ra. Ảnh tư liệu

      Ông Thinh chia sẻ: Chính vì câu nói đó, mặc dù có nhiều nơi muốn nhận ông về làm cán bộ, trong đó có Ban Tổ chức Tỉnh ủy Lâm Đồng, nhưng ông luôn tâm niệm, người lính ra đi từ công nhân mỏ thì trở về vẫn là công nhân mỏ. Năm 1977 ông là Phó Phòng Tổ chức cán bộ, sau đó được cử đi học chính trị, rồi quay về làm Trưởng Phòng Tổ chức Trường Đào tạo bồi dưỡng cán bộ công nhân Công ty Than Hòn Gai (nay là Trường Cao đẳng Than - Khoáng sản Việt Nam).

      Sau đó ông là Thường vụ Đảng ủy, Chủ tịch Công đoàn Xí nghiệp Khai thác than (Công ty Than Hòn Gai). Đến năm 2003 ông nghỉ hưu, đảm nhận Trưởng Ban liên lạc Binh đoàn Than. Ban đã tổ chức hoạt động thăm hỏi, gặp mặt, giúp đỡ nhau; đi tìm đồng đội nằm lại chiến trường xưa để đưa về quê hương. Ông cho biết: Mặc dù trong mình có nhiều vết thương trong chiến tranh nhưng được sống trở về với vợ con đã là niềm hạnh phúc lớn so với nhiều đồng đội đã hy sinh. Ông luôn day dứt về những người ông đã chôn cất hiện vẫn chưa tìm thấy hài cốt.

Đồng đội đưa hài cốt liệt sĩ, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Xuân Việt từ Kon Tum về với quê hương. Ảnh tư liệu
Đồng đội đưa hài cốt liệt sĩ, Anh hùng LLVTND Nguyễn Xuân Việt từ Kon Tum về với quê hương. Ảnh tư liệu

      CCB Chu Văn Đích phục viên ra Bắc năm 1974, quay về Nhà máy Cơ khí Hòn Gai làm công tác đoàn, rồi làm Chủ tịch Công đoàn Nhà máy. Với người lính đi ra từ trận mạc, ông luôn thể hiện phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, vừa là người lính, vừa là người thợ. Trong những năm tháng đất nước khó khăn, thi đua lao động sản xuất được ông luôn nhắc nhở khích lệ động viên đội ngũ công nhân xứng đáng truyền thống người thợ mỏ.

      Ông Đích cho biết: Trở về từ chiến trường khi đất nước đổi mới phát triển, ông luôn cố gắng học tập vươn lên, tiếp cận cái mới; ông đã hoàn thiện học đại học và công tác đến khi về hưu. Ông luôn tự hào mình là công nhân mỏ, người lính Binh đoàn Than. 

Ba đồng đội của Binh đoàn Than ông Bùi Duy Thinh, ông Lưu Văn Dúy (giữa) và ông Chu Văn Đích mặc dù tuổi cao sức khỏe yếu nhưng các vẫn thường xuyên gặp gỡ ôn lại kỷ niệm về chiến công anh dũng hào hùng của Binh đoàn Than.
Các CCB Binh đoàn Than: Bùi Duy Thinh (trái), Lưu Văn Quý (giữa), Chu Văn Đích thường xuyên gặp nhau, ôn lại kỷ niệm.

      Ông Lưu Văn Quý trong trận chống càn ở ấp Bình Chánh (Long An), bị 2 mảnh đạn găm vào đầu, bị thương rất nặng, thương binh hạng 3/4. Năm 1970 ông được đưa Bắc điều trị, sau đó trở lại Mỏ Than Hà Tu nơi ông đã ra viết đơn tình nguyện vào Binh đoàn Than. Ông làm thợ kỹ thuật phục vụ khai thác, đóng góp nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất lao động. Ông được tín nhiệm bầu làm Bí thư Đoàn Thanh niên, công tác đến khi nghỉ hưu. Giờ đây ở tuổi xưa nay hiếm, sức khỏe yếu do vết thương chiến tranh hành hạ, nhưng ông vẫn thể hiện tinh thần người lính Binh đoàn Than oai hùng.

      Chiến tranh đã lùi xa hơn 50 năm, những công nhân mỏ tuổi mười tám, đôi mươi của Binh đoàn Than năm xưa giờ đây người còn, người mất. Họ đã góp phần viết nên một dấu son chói lọi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong sản xuất và trong chiến đấu, tinh thần “Kỷ luật và Đồng tâm” của công nhân Vùng mỏ Anh hùng. Binh đoàn Than mãi mãi niềm tự hào của công nhân Vùng mỏ...

QN

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây